cảm nhận về thời gian trong bài Tự tình II
gia sư dạy tiếng anh tphcm nhận thấy quan niệm về thời gian, người xưa với câu: “Thời gian như bóng câu qua cửa sổ”. Ý thức được dòng thời gian là tuyến tính, chảy trôi ko bao giờ trở lại, những thi nhân lại càng khẩn thiết sở hữu cuộc đời, với tình đời hơn nữa. Trong ba bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương thì hai bài cảm thức của thời gian phát triển thành dòng nền của tâm trạng. Tự tình I mở đầu và kết thức là những câu thơ với cảm thức về thời gian: “Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom”, “Thân này đâu đã chịu già tom”. Tự tình II cũng là kết cấu vòng tròn, mở ra bằng sự cảm nhận về thời gian và khép lại trong chính sự cảm nhận ấy.
gia sư dạy kèm ở biên hòa cho rằng thời gian là 1 thần thế đối chọi với cuộc sống con người, đặc trưng là đối với tuổi trẻ và tình yêu. Ý thức về tuổi trẻ, về ái tình thường đi liền có thời gian. Hồ Xuân Hương là người tinh thần sâu đậm về tình duyên, duyên phận, và là một người phụ nữ bắt buộc tinh thần thời gian trong thơ bà càng thể hiện rõ hơn. Cảm thức về thời kì trong thơ Hồ Xuân Hương gắn liền có tình yêu. Bà như vừa thách đố thời gian, vừa nở nụ cười đắc thắng: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại.”
Bài thơ trình bày duyên phận muộn màng, lỡ dở trong lúc thời gian cứ hững hờ trôi qua. Nghịch đối này dẫn đến tâm cảnh vừa buồn tủi, vừa phẫn uất nhưng cuối cộng đọng lại là nỗi xót xa. Mở đầu bài thơ là nỗi niềm của người đàn bà gợi nên giữa đêm khuya.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ loại hồng nhan mang nước non.”
gia sư dạy tiếng anh ở biên hòa thấy giữa ko gian rợn ngợp con người thường cảm thấy mình nhỏ bé. Hồ Xuân Hương cảm nhận được sự đơn chiếc trước thời gian. Thời gian vô thủy vô chung nhưng không gian đựng đựng trong nó bước đi của sự phá hủy. “Văng vẳng không chỉ não lòng mà còn lo lắng”. Nghe “văng vẳng” ko đơn giản là sự cảm nhận âm thanh mà còn “nghe” thời gian trôi. Nhịp gấp gáp, liên miên của đêm trống vừa là sự cảm nhận, vừa là sự biểu lộ bước đi dồn dập của thời gian và sự bối rối của tâm trạng. Khi trăm mối tơ lòng ko thể gỡ mà thời kì thì gấp gáp trôi qua thì chỉ còn lại sự bẽ bàng:
“Trơ loại hồng nhan mang nước non”
tuyển gia sư tiếng anh tại bình dương thấy từ “trơ” đặt ở đầu câu mang nghệ thuật đảo ngữ, ngoài bản lĩnh Hồ Xuân Hương vẫn là nỗi đau Hồ Xuân Hương, từ này cộng nghĩa với từ “trơ” biểu hiện tâm trạng của Kiều lúc bị người bỏ rơi không 1 chút đoái thương: “Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ”. “Trơ” là tủi hổ, “trơ” là bẽ bàng. Thêm vào đó, hai chữ “hồng nhan” để nhắc về vẻ đẹp người thiếu nữ cơ mà đi có từ “cái” thì thật phải chăng rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” “trơ” mang sông núi là sự phơi phang, không chỉ dãi dầu mà còn là cay đắng. Dù câu thơ chỉ nhắc về một vế “hồng nhan” nhưng vẫn gợi buộc phải nỗi bạc phận, vì thế xót xa càng thấm thía, ngẫm nghĩ lại càng đau. Nhịp điệu câu thơ 1/3/3 nhấn mạnh sự bẽ bàng.
Như phổ biến bài thơ làm theo thể Đường luật, hai câu thực nói rõ thực cảnh, hai câu luận kể rõ thực tình:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Gia sư uy tín tphcm nhận thấy nhường như Hồ Xuân Hương đã “ngồi nhẫn tàn canh”, ngồi một mình trong sự cô đơn đối diện có đêm khuya, sở hữu vầng trăng lạnh. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa trăng và người. Cảnh tình Hồ Xuân Hương đựng cất trong bài thơ thấm đẫm bi kịch: trăng sắp tàn (“bóng xế”) mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên ko trọn vẹn. Cuộc rượu say rồi tỉnh mà cũng là cuộc tình vấn vương mau tan. Rượu tan sau cơn say chỉ còn là nỗi rã rời. Vòng quẩn “say lại tỉnh” gợi cần sự cảm nhận tơ duyên trắc trở.
trung tâm gia sư toàn tâm tphcm cho rằng nỗi buồn ở Hồ Xuân Hương lại gợi lên 1 sự phản ứng tích cực, đó là sự phản kháng, phẫn uất. Bên cạnh nỗi đau, người phụ nữ ấy còn trình bày 1 bản lĩnh kiên cường. Bản lĩnh ấy bộc lộ trong chữ “trơ”. Đó không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách thức. Từ “trơ” hài hòa sở hữu “nước non” bộc lộ sự bền gan, thách thức. Thiên nhiên nhịn nhường như cũng có niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật nhỏ bé, hèn mọn như đám rêu kia cũng không chịu yếu mềm. Đá rắn chắc lại buộc phải nhọn hơn nữa để “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ ở hai câu luận làm cho nổi bật lên sự căm uất của tâm trạng. Động từ mạnh “đâm”, “xiên” kết hợp có bổ ngữ “ngang”, “toạc” bộc lộ sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. Những từ ngữ đấy khiến cho cảnh vật trong thơ Hồ Xuân Hương mãnh liệt ngay cả trong cảnh huống bi thảm nhất.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Thế nhưng, bi kịch Hồ Xuân Hương ở chỗ “bà ko với cảm giác thua cuộc nhưng kết quả là Hồ Xuân Hương thua cuộc” (Nguyễn Lộc). Tự tình II kết lại bằng tâm trạng buồn tủi, chán chường:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình chia sẻ tí con con”
Gia sư uy tín ở tphcm nhận thấy ở Hồ Xuân Hương sự chán đời éo le, bạc bẽo. Xuân đi rồi Xuân lại, tạo hóa tuần hoàn một vòng luẩn quẩn. Từ “xuân” có hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân đi qua rồi trở lại mang muôn hoa cây lá còn tuổi xuân đi qua thì không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” có hai ý nghĩa khác nhau. “Lại” thứ nhất là thêm lần nữa, từ “lại” đồ vật hai là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa mang sự ra đi của tuổi xuân. Nghịch cảnh càng éo le hơn bởi nghệ thuật tăng tiến ở câu thơ cuối: “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Câu thơ được viết ra sở hữu thể bởi nhân vật trữ tình trong hoàn cảnh khiến lẽ. Tuy nhiên, nó cũng là nỗi lòng của người nữ giới trong xã hội xưa, khi với họ hạnh phúc chỉ là cái chăn quá hẹp. Bài thơ mô tả nỗi buồn đau trước duyên phận, gắng gượng gạo vươn lên nhưng lại rơi vào bi kịch.
Tự tình II là bài thơ ắp đầy tâm trạng lo lắng, ngán ngẩm khi con người nhận thức rõ bước đi của thời gian. Mở đầu và kết thúc bằng cảm thức thời kì nhưng bài thơ không với cảm giác nặng nằn nì như vòng tuần hoàn của tạo hóa. Hiện trên nền bức tranh tâm trạng ấy là dáng hình một phụ nữ đang phôi phai, đang chìm đắm trong sự cô đơn miên viễn.
gia sư dạy kèm ở biên hòa cho rằng thời gian là 1 thần thế đối chọi với cuộc sống con người, đặc trưng là đối với tuổi trẻ và tình yêu. Ý thức về tuổi trẻ, về ái tình thường đi liền có thời gian. Hồ Xuân Hương là người tinh thần sâu đậm về tình duyên, duyên phận, và là một người phụ nữ bắt buộc tinh thần thời gian trong thơ bà càng thể hiện rõ hơn. Cảm thức về thời kì trong thơ Hồ Xuân Hương gắn liền có tình yêu. Bà như vừa thách đố thời gian, vừa nở nụ cười đắc thắng: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại.”
Bài thơ trình bày duyên phận muộn màng, lỡ dở trong lúc thời gian cứ hững hờ trôi qua. Nghịch đối này dẫn đến tâm cảnh vừa buồn tủi, vừa phẫn uất nhưng cuối cộng đọng lại là nỗi xót xa. Mở đầu bài thơ là nỗi niềm của người đàn bà gợi nên giữa đêm khuya.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ loại hồng nhan mang nước non.”
gia sư dạy tiếng anh ở biên hòa thấy giữa ko gian rợn ngợp con người thường cảm thấy mình nhỏ bé. Hồ Xuân Hương cảm nhận được sự đơn chiếc trước thời gian. Thời gian vô thủy vô chung nhưng không gian đựng đựng trong nó bước đi của sự phá hủy. “Văng vẳng không chỉ não lòng mà còn lo lắng”. Nghe “văng vẳng” ko đơn giản là sự cảm nhận âm thanh mà còn “nghe” thời gian trôi. Nhịp gấp gáp, liên miên của đêm trống vừa là sự cảm nhận, vừa là sự biểu lộ bước đi dồn dập của thời gian và sự bối rối của tâm trạng. Khi trăm mối tơ lòng ko thể gỡ mà thời kì thì gấp gáp trôi qua thì chỉ còn lại sự bẽ bàng:
“Trơ loại hồng nhan mang nước non”
tuyển gia sư tiếng anh tại bình dương thấy từ “trơ” đặt ở đầu câu mang nghệ thuật đảo ngữ, ngoài bản lĩnh Hồ Xuân Hương vẫn là nỗi đau Hồ Xuân Hương, từ này cộng nghĩa với từ “trơ” biểu hiện tâm trạng của Kiều lúc bị người bỏ rơi không 1 chút đoái thương: “Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ”. “Trơ” là tủi hổ, “trơ” là bẽ bàng. Thêm vào đó, hai chữ “hồng nhan” để nhắc về vẻ đẹp người thiếu nữ cơ mà đi có từ “cái” thì thật phải chăng rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” “trơ” mang sông núi là sự phơi phang, không chỉ dãi dầu mà còn là cay đắng. Dù câu thơ chỉ nhắc về một vế “hồng nhan” nhưng vẫn gợi buộc phải nỗi bạc phận, vì thế xót xa càng thấm thía, ngẫm nghĩ lại càng đau. Nhịp điệu câu thơ 1/3/3 nhấn mạnh sự bẽ bàng.
Như phổ biến bài thơ làm theo thể Đường luật, hai câu thực nói rõ thực cảnh, hai câu luận kể rõ thực tình:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Gia sư uy tín tphcm nhận thấy nhường như Hồ Xuân Hương đã “ngồi nhẫn tàn canh”, ngồi một mình trong sự cô đơn đối diện có đêm khuya, sở hữu vầng trăng lạnh. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa trăng và người. Cảnh tình Hồ Xuân Hương đựng cất trong bài thơ thấm đẫm bi kịch: trăng sắp tàn (“bóng xế”) mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên ko trọn vẹn. Cuộc rượu say rồi tỉnh mà cũng là cuộc tình vấn vương mau tan. Rượu tan sau cơn say chỉ còn là nỗi rã rời. Vòng quẩn “say lại tỉnh” gợi cần sự cảm nhận tơ duyên trắc trở.
trung tâm gia sư toàn tâm tphcm cho rằng nỗi buồn ở Hồ Xuân Hương lại gợi lên 1 sự phản ứng tích cực, đó là sự phản kháng, phẫn uất. Bên cạnh nỗi đau, người phụ nữ ấy còn trình bày 1 bản lĩnh kiên cường. Bản lĩnh ấy bộc lộ trong chữ “trơ”. Đó không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách thức. Từ “trơ” hài hòa sở hữu “nước non” bộc lộ sự bền gan, thách thức. Thiên nhiên nhịn nhường như cũng có niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật nhỏ bé, hèn mọn như đám rêu kia cũng không chịu yếu mềm. Đá rắn chắc lại buộc phải nhọn hơn nữa để “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ ở hai câu luận làm cho nổi bật lên sự căm uất của tâm trạng. Động từ mạnh “đâm”, “xiên” kết hợp có bổ ngữ “ngang”, “toạc” bộc lộ sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. Những từ ngữ đấy khiến cho cảnh vật trong thơ Hồ Xuân Hương mãnh liệt ngay cả trong cảnh huống bi thảm nhất.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Thế nhưng, bi kịch Hồ Xuân Hương ở chỗ “bà ko với cảm giác thua cuộc nhưng kết quả là Hồ Xuân Hương thua cuộc” (Nguyễn Lộc). Tự tình II kết lại bằng tâm trạng buồn tủi, chán chường:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình chia sẻ tí con con”
Gia sư uy tín ở tphcm nhận thấy ở Hồ Xuân Hương sự chán đời éo le, bạc bẽo. Xuân đi rồi Xuân lại, tạo hóa tuần hoàn một vòng luẩn quẩn. Từ “xuân” có hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân đi qua rồi trở lại mang muôn hoa cây lá còn tuổi xuân đi qua thì không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” có hai ý nghĩa khác nhau. “Lại” thứ nhất là thêm lần nữa, từ “lại” đồ vật hai là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa mang sự ra đi của tuổi xuân. Nghịch cảnh càng éo le hơn bởi nghệ thuật tăng tiến ở câu thơ cuối: “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Câu thơ được viết ra sở hữu thể bởi nhân vật trữ tình trong hoàn cảnh khiến lẽ. Tuy nhiên, nó cũng là nỗi lòng của người nữ giới trong xã hội xưa, khi với họ hạnh phúc chỉ là cái chăn quá hẹp. Bài thơ mô tả nỗi buồn đau trước duyên phận, gắng gượng gạo vươn lên nhưng lại rơi vào bi kịch.
Tự tình II là bài thơ ắp đầy tâm trạng lo lắng, ngán ngẩm khi con người nhận thức rõ bước đi của thời gian. Mở đầu và kết thúc bằng cảm thức thời kì nhưng bài thơ không với cảm giác nặng nằn nì như vòng tuần hoàn của tạo hóa. Hiện trên nền bức tranh tâm trạng ấy là dáng hình một phụ nữ đang phôi phai, đang chìm đắm trong sự cô đơn miên viễn.